Thứ Bảy, 26 tháng 7, 2014

Công hàm Phạm Văn Đồng 1958- tai họa cho Việt nam !

26/07/2014


Tác dụng pháp lý của thư Phạm Văn Đồng qua lăng kính ba phán quyết Tòa án Quốc tế

Phạm Quang Tuấn
Ba phán quyết của Tòa án Quốc tế mà học giả Phạm Quang Tuấn trưng ra làm bằng chứng dưới đây có thể xem là ba thiết chứng chỉ rõ tác dụng phản trắc đắc lực của Công hàm/Công thư Phạm Văn Đồng nếu Việt Nam đem vấn đề Hoàng Sa - Trường Sa ra trước Tòa án Quốc tế. Đọc xong không ai không thảng thốt đến nhói tim. Điều ông Giám đốc Minh triết Việt Nguyễn Khắc Mai nói cách đây ít lâu bỗng trở thành một ám ảnh ghê gớm: “Công hàm Phạm Văn Đồng là một tai họa cho Việt Nam trong vấn đề tranh chấp chủ quyền biển đảo với Trung Quốc”, là “một công thư phản động”, “có tác hại phản quốc” (Xem ở đây). Thử nghĩ, công thư của một ông Thủ tướng là “phản động”, “phản quốc” thì bản thân ông Thủ tướng và bộ sậu Chính phủ của ông ta là gì? Càng ngày càng thấy cái gọi bằng liên minh cộng sản nhân danh chủ nghĩa vô sản quốc tế trong thế kỷ XX chỉ ẩn giấu phía sau độc nhất mỗi mưu đồ thôn tính lãnh thổ của nước lớn đối với nước nhỏ.
Alexandre Soljenitsyne đã từng khẳng quyết: “Quốc tế – L’International – là một sai lầm, vì bản thân chữ “inter” có nghĩa là giữa và giữa các quốc gia không có một nền văn hóa chung nào cả”(L'international est une aberration, car “inter” signifie entre et entre les nations il n'y a aucune culture commune). Ngu dại thay những ai vì quá nôn nóng tìm đường cứu nước vào những năm 20-30 thế kỷ trước, đem tấm lòng nhiệt huyết băng vời sang Tàu sang Nga để chỉ mua lấy một sợi dây thừng về quấn chân dân tộc.
Nhưng cho đến giờ phút này mà vị nào trong thế hệ cháu con những con người ngu dại kia còn cuồng tưởng rằng bè lũ Trung Nam Hải có thể cứu được thân phận “cùng hội cùng thuyền” về ý thức hệ, hay đúng hơn là quyền lợi ích kỷ cho phe đảng, thì không chỉ lú lẫn thôi đâu, mà chóng hay chầy nhất định sẽ phải chịu sự phán xét khắc nghiệt nhất của lịch sử. Quả như lời chí sĩ Phan Châu Trinh: “Gớm thay một lũ hồ tinh / Nương hơi dựa bóng tập tành đã quen”.
Nguyễn Huệ Chi


Gần đây một số tác giả, trong đó có cả những luật sư, đã phân tích giá trị pháp lý của thư (hoặc công hàm hay công thư [1]) của Thủ tướng Phạm Văn Đồng (1958) dựa theo các nguyên tắc pháp lý quốc tế. Dĩ nhiên, biết những nguyên tắc luật pháp nào phải áp dụng là điều rất quan trọng, nhưng điều quan trọng chẳng kém là phải biết Tòa diễn giải và áp dụng những nguyên tắc đó ra sao. Bài này duyệt qua phán quyết của Tòa án Quốc tế về ba vụ án tranh chấp chủ quyền: đảo Pedra Branca, Đông Greenland và đền Preah Vihear.
Trong vụ Pedra Branca có một lá thư từ một viên Đổng lý tương tự như thư Phạm Văn Đồng. Vụ Đông Greenland không có văn kiện chính thức mà chỉ có một lời nói từ một vị Ngoại trưởng. Vụ Preah Vihear không có văn kiện hay lời nói nào từ bỏ chủ quyền của mình hay công nhận chủ quyền của nước khác. Cả ba việc này đều đóng một phần quan trọng đưa đến việc Tòa xử mất chủ quyền. Từ đó, ta sẽ có thể suy ra vài điều về tác dụng của thư Phạm Văn Đồng nếu chủ quyền Hoàng sa - Trường sa được đem ra kiện trước tòa. Người nào không có thì giờ đọc hết có thể đi thẳng đến câu cuối (kết luận 14) bài này.
Lưu ý:
Vài lý lẽ trong bài này có thể khiến tác giả bị gọi là “thân Tàu” hay “Việt gian”. Trong bối cảnh Việt Nam có thể kiện Trung Quốc ra Tòa án quốc tế, xin hãy coi bài này như một cố gắng kiểm điểm áo giáp của mình trước khi ra trận, xem có lỗ thủng nào không để tìm cách vá lại. Nếu tìm ra lỗ thủng thì “Việt gian” “thân Tàu” không phải là người kiểm điểm, mà chính là người gây ra lỗ thủng.
Phần I. Ý định trong thư Phạm Văn Đồng
Như ta sẽ thấy trong các phần sau, ý định (intention) diễn tả trong một lá thư hay văn kiện chiếm một vai trò chính yếu trong sự phân xử của Tòa án Quốc tế. Vì có nhiều ý kiến khác nhau về nội dung của thư Phạm Văn Đồng nên cần xem lại thư này nói gì. Nguyên văn thư Phạm Văn Đồng như sau ([A] và [B] do tác giả bài này đánh số thêm để tiện việc bàn luận):
Kính gửi đồng chí Chu Ân Lai,
Tổng lý Quốc vụ viện nước Cộng hoà nhân dân Trung-hoa tại Bắc Kinh.
Thưa đồng chí Tổng lý
Chúng tôi xin trân trọng thông báo tin để đồng chí Tổng lý rõ:
[A] Chính phủ nước Việt-nam dân chủ cộng hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của Trung-quốc.
[B] Chính phủ nước Việt-nam dân chủ cộng hoà tôn trọng quyết định ấy và chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung-quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà nhân dân Trung-hoa trên mặt biển.
Chúng tôi xin kính gửi đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng.
Hà Nội, ngày 14 tháng 9 năm 1958
PHẠM VĂN ĐỒNG
Thủ tướng Chính phủ
nước Việt-nam dân chủ cộng hoà
Thư này “ghi nhận và tán thành bản tuyên bố” ngày 4/9/1958 của Trung Quốc mà nội dung như sau (theo bản tiếng Anh của Bộ Ngoại giao Mỹ viện dẫn tạp chí Peking Review [2]):
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tuyên bố:
(1) Bề rộng lãnh hải của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa là 12 hải lý. Ðiều lệ này áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, gồm Trung Quốc đất liền và các đảo dọc bờ, Ðài Loan và các đảo lân cận, quần đảo Penghu và tất cả các đảo khác trên biển cả thuộc Trung Quốc.
(2) Đường cơ sở của lãnh hải thuộc đất liền Trung Quốc và các đảo dọc bờ biển là các đường thẳng nối liền các điểm cơ sở trên bờ và các đảo ngoại biên dọc bờ biển [offshore outlying islands]; Vùng biển 12 hải lý tính ra từ các đường cơ sở là lãnh hải của Trung Quốc. Vùng biển bên trong các đường căn bản, kể cả vịnh Bohai và eo biển Giongzhou, là nội hải của Trung Quốc. Các đảo bên trong đường cơ sở, kể cả đảo Dongyin, đảo Gaodeng, đảo Mazu, đảo Baiquan, đảo Niaoqin, đảo Ðại và Tiểu Jinmen, đảo Dadam, đảo Erdan, và đảo Dongding, là các đảo thuộc nội hải Trung Quốc.
(3) Nếu không có sự cho phép của Chính phủ Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, máy bay ngoại quốc và tàu bè quân sự không được đi vào hải phận Trung Quốc và vùng trời trên hải phận này.
(4) Những nguyên tắc trong đoạn (2) và (3) bên trên cũng áp dụng cho Ðài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa [Hoàng Sa], quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa [Trường Sa], và tất cả các đảo khác thuộc Trung Quốc.
Ðài Loan và Penghu hiện còn bị chiếm đóng bởi Hoa Kỳ. Ðây là hành động bất hợp pháp vi phạm sự toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Ðài Loan và Penghu đang chờ được chiếm lại. Cộng hòa nhân dân Trung Hoa có quyền dùng mọi biện pháp thích ứng để lấy lại các phần đất này trong tương lai. Đây là vấn đề nội bộ của Trung Quốc, các nước ngoài không được xen vào.
Thư Phạm Văn Đồng là một lá thư chính thức (công thư hay công hàm), ký tên và đóng dấu bởi Thủ tướng một quốc gia, người đứng đầu Chính phủ, nhân danh Chính phủ để nói và đầy đủ tư cách để đại diện quốc gia của mình.
Bức thư gồm hai câu chính: câu đầu (A) bày tỏ lập trường, thái độ: tán thành bản tuyên bố của Trung Quốc. Câu sau (B) nói về hành động cụ thể: chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước phải tôn trọng lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc.
Nhiều tác giả và phát ngôn viên Việt Nam (chẳng hạn [3]) cho rằng vì thư Phạm Văn Đồng không viết rõ những chữ “Hoàng sa” và “Trường sa” nên không thể nói là đã chấp nhận chủ quyền Trung Quốc ở hai quần đảo trên. Họ cho rằng bản tuyên bố nói về bề rộng 12 hải lý là ý chính, những ý khác (kể cả hải phận quanh Hoàng sa - Trường sa) chỉ là ý phụ, thư Phạm Văn Đồng chỉ tán thành ý chính này chứ không tán thành những ý phụ. Những người sính ngôn ngữ luật gọi đây là “nguyên tắc bốn góc”: chỉ được hiểu từ những gì được viết ra trong văn bản, không được suy diễn thêm.
Có người còn viện dẫn nguyên tắc “phải giải thích văn bản theo cách nào ít hại nhất cho tác giả” trong luật quốc tế. Tuy nhiên, dù giải thích “trong bốn góc” và “ít hại nhất” thì cũng vẫn phải hợp lý và tuân theo những nguyên tắc logic phổ quát và các định luật ngôn ngữ căn bản. Chẳng hạn, trong vụ Pedra Branca ta sẽ thấy Tòa hiểu câu “[chúng tôi] không đòi hỏi sở hữu [đảo này]” là “[chúng tôi] không đòi hỏi chủ quyền [đảo này]”, dù theo luật pháp thì không có sở hữu chưa chắc là không có chủ quyền.
Thử áp dụng nguyên tắc “trong bốn góc”, ta đọc thấy rằng ông Phạm Văn Đồng đã “ghi nhận và tán thành bản tuyên bố”. Lưu ý chữ “bản”, nói về cả văn bản, chứ không phải chỉ nói về một trong những tuyên bố trong văn bản: mặc nhiên là ông Phạm Văn Đồng đã tán thành toàn bộ nội dung của bản tuyên bố đó. Nếu chỉ tán thành một phần và không tán thành phần khác thì không thể nói là tán thành bản tuyên bố được. Bản tuyên bố nói trong đoạn 4 rằng lãnh hải Trung Quốc bọc quanh Hoàng Sa và Trường Sa, tức là ông Phạm Văn Đồng đã tán thành điều đó, không cần phải nhắc lại trong thư của mình.
Lấy ví dụ, khi tòa án hỏi nhân chứng: “Ông/bà có hứa sẽ nói sự thật, tất cả sự thật và không gì khác ngoài sự thật?” (Do you swear to say the truth, the whole truth and nothing but the truth?), nhân chứng chỉ cần trả lời “I do” là đủ hiểu họ hứa tất cả những điều được hỏi, chứ không thể hiểu là họ chỉ hứa phần 1 nhưng không hứa phần 2 hay 3, v.v., và chắc chắn là không thể cãi rằng “tôi chỉ nói ‘I do’ chứ tôi đâu có hứa gì đâu?”. Hoặc trong thủ tục kết hôn, khi được hỏi “Anh/chị có hứa/thề sẽ...” (theo sau là nhiều lời hứa) cô dâu chú rể chỉ cần trả lời “Có” (I do) chứ không cần phải nhắc lại tất cả các lời hứa người hành lễ vừa đọc.
Có người cho rằng câu B trong thư Phạm Văn Đồng làm hẹp lại nghĩa của câu A: câu A tán thành chung chung, câu B mới viết cụ thể là tôn trọng hải phận 12 hải lý. Khi mà nói về một điều tức là loại ra hay bác bỏ những điều không nói. Lý luận đó chỉ có thể đúng nếu không có đoạn “tán thành bản tuyên bố” trong câu A, vì không thể vừa tán thành một bản văn vừa không tán thành nhiều điều trong bản văn đó. Hơn nữa, câu B không phải là làm rõ nghĩa câu A như nhiều người lý luận, mà nói về một hành động cụ thể (chỉ thị các cơ quan...) phát sinh từ sự tán thành trong câu A.
Có người cho rằng Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa không cần thiết phải tuyên bố chủ quyền trên Hoàng Sa - Trường Sa vì những đảo này đang dưới sự quản lý của Việt Nam cộng hòa. Lý luận như vậy là lẫn lộn chủ quyền với sự quản lý. Hiến pháp Việt Nam dân chủ cộng hòa nói rõ rằng nước Việt Nam là một nước thống nhất không thể phân chia, tức là Việt Nam dân chủ cộng hòa tự coi là có chủ quyền trên mọi phần đất Việt Nam từ bắc tới nam, và mọi hải đảo.
Có người [4] viết rằng, dựa theo “nguyên tắc thực lòng” (principle of good faith) trong luật quốc tế, vì Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa là những người rất yêu nước, đã từng hy sinh xương máu để bảo vệ chủ quyền đất nước nên họ không thể thực lòng muốn nhường lãnh thổ cho nước khác, do đó Tòa án Quốc tế sẽ không nhìn nhận ý định đó trong thư Phạm Văn Đồng. Diễn giải “thực lòng” theo kiểu này thì thật kỳ quặc, vì như vậy mỗi nước sẽ có quyền tha hồ tuyên bố, ký hiệp ước lừa bịp các nước khác, rồi tuyên bố rằng tôi không “thực lòng” (in good faith) khi viết hay ký những văn kiện đó và do đó chúng không ràng buộc tôi được! Diễn giải kiểu đó thì “nguyên tắc thực lòng” sẽ phải gọi là “nguyên tắc dối trá” (principle of bad faith)!
Thực ra, sự “thực lòng” trong giao dịch quốc tế phải hiểu là người viết hay ký thực lòng hiểu ý nghĩa của cái mình đang viết hay đang ký như thế nào, và sẽ thực lòng thi hành những gì đã hứa, chứ không có nghĩa là khi mình nói dối, nói mà “không thực lòng”, thì không sợ sẽ bị ràng buộc. Nguyên tắc này cần thiết để diễn dịch những hiệp ước, văn kiện trong đó có thể có sự hiểu lầm do khác biệt văn hóa chẳng hạn, và để đảm bảo là mỗi nước thực tâm thi hành những điều đã hứa [5].
Nếu ông Phạm Văn Đồng thực lòng chỉ tán thành việc cho bề rộng lãnh hải Trung Quốc rộng 12 hải lý thì ông vẫn có thể bỏ đoạn A đi, chỉ viết rằng: “Chính phủ nước Việt-nam dân chủ cộng hoà tôn trọng quyết định về hải phận 12 hải lý của Trung-quốc và chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý ấy”. Như vậy chẳng đủ biểu lộ sự đoàn kết với nước anh em hay sao? (“Tôn trọng” chưa chắc đã là “tán thành”, tôn trọng nói về hành xử, tán thành nói về thái độ, tâm ý.)
Nói tóm lại, khó chối cãi rằng trong thư Phạm Văn Đồng, Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa đã tán thành hay chấp nhận Trung Quốc có chủ quyền trên Hoàng Sa - Trường sa. Ít nhất, thư này không phản ứng gì về câu “áp dụng cho... quần đảo Tây Sa [Hoàng Sa], quần đảo Nam Sa [Trường Sa]” trong bản tuyên bố của Trung Quốc: ta sẽ thấy là điều này rất quan trọng.
Phần II. Vụ án Pedra Branca
Tóm tắt vụ án
Pedra Branca, Middle Rocks và South Ledge là những đảo nhỏ nằm trong eo biển Malacca giữa Singapore và Malaysia. Thế kỷ 19 trở về trước những đảo này thuộc về vương quốc Johor, nay là một bang của Malaysia. Năm 1844 Johor cho phép chính quyền thuộc địa Anh xây và sau đó liên tục cai quản một hải đăng trên Pedra Branca. Năm 1979 Malaysia (quốc gia kế thừa Johor) công bố một bản đồ vẽ nhóm đảo này nằm trong lãnh hải của mình. Singapore (quốc gia kế thừa chính quyền thuộc địa Anh) phản đối. Hai nước đưa ra Tòa án Quốc tế phân xử năm 2003. Tòa xử là Pedra Branca thuộc về Singapore, Middle Rocks thuộc về Malaysia, còn South Ledge là đảo chìm khi nước lên, nên theo luật biển chủ quyền sẽ tùy thuộc nằm trong lãnh hải của nước nào (lãnh hải khu này chưa phân định xong) [6, 7].
Một sự kiện nổi bật trong quá trình này xảy ra năm 1953. Năm đó, chính quyền thuộc địa Anh viết thư cho Johor yêu cầu làm rõ tình trạng pháp lý của Pedra Branca. Quyền Đổng lý Tiểu bang (Acting State Secretary) Johor viết thư trả lời. Vì đáp thư Johor được tòa coi là có ý nghĩa rất quan trọng trong vụ án này, và có nhiều điểm tương đồng với thư Phạm Văn Đồng, nên cần biết rõ nội dung của nó. Nguyên văn lá thư như sau (đoạn 196 trong [6]):
“I have the honour to refer to your letter . . . dated 12th June 1953, addressed to the British Adviser, Johore, on the question of the status of Pedra Branca Rock some 40 miles from Singapore and to inform you that the Johore Government does not claim ownership of Pedra Branca.”
dịch:
Tôi xin trân trọng đề cập đến thư của ngài ngày 12 tháng 6 năm 1953, gửi cho Cố vấn Anh, Johore, về tình trạng của Pedra Branca cách Singapore khoảng 40 dặm và xin thông báo rằng Chính phủ Johore không đòi quyền sở hữu Pedra Branca.”
Những tiêu chuẩn pháp lý được Tòa áp dụng
Tòa đã xác định những tiêu chuẩn pháp lý được áp dụng như sau (“đoạn xxx” chỉ những đoạn có số thứ tự trong phán quyết của Tòa [6]):
· Muốn kết luận là đã có sự thay đổi chủ quyền thì cần có những bằng cớ rõ rệt, không thể nghi ngờ, căn cứ vào cách hành xử hai bên và những sự kiện liên hệ (đoạn 122).
(122. Critical for the Court’s assessment of the conduct of the Parties is the central importance in international law and relations of State sovereignty over territory and of the stability and certainty of that sovereignty. Because of that, any passing of sovereignty over territory on the basis of the conduct of the Parties, as set out above, must be manifested clearly and without any doubt by that conduct and the relevant facts. That is especially so if what may be involved, in the case of one of the Parties, is in effect the abandonment of sovereignty over part of its territory.)
· Luật pháp quốc tế không nhấn mạnh vào hình thức (chẳng hạn, một hiệp ước chuyển nhượng chủ quyền), thậm chí không cần hai bên nói ra (tacit), mà tập trung vào ý định (intention) của hai bên. Sự thay đổi chủ quyền có thể suy diễn từ cách hành xử của hai bên.
(120. Any passing of sovereignty might be by way of agreement between the two States in question. Such an agreement might take the form of a treaty,[...] The agreement might instead be tacit and arise from the conduct of the Parties. International law does not, in this matter, impose any particular form. Rather it places its emphasis on the parties’ intentions (cf. e.g. Temple of Preah Vihear (Cambodia v. Thailand), Preliminary Objections, I.C.J. Reports 1961, pp. 17, 31).)
· Nếu một nước không phản ứng khi cần thiết, chẳng hạn khi nước khác khẳng định chủ quyền trên vùng đất của mình, thì chủ quyền có thể coi là đã chuyển qua nước kia. Hành xử này gọi là sự đồng ý hay chấp nhận ngầm (acquiescence).
(121. Under certain circumstances, sovereignty over territory might pass as a result of the failure of the State which has sovereignty to respond to conduct à titre de souverain of the other State or, as Judge Huber put it in the Island of Palmas case, to concrete manifestations of the display of territorial sovereignty by the other State (Island of Palmas Case (Netherlands/United States of America), Award of 4 April 1928, RIAA, Vol. II, (1949) p. 839). Such manifestations of the display of sovereignty may call for a response if they are not to be opposable to the State in question. The absence of reaction may well amount to acquiescence. The concept of acquiescence “is equivalent to tacit recognition manifested by unilateral conduct which the other party may interpret as consent . . .” (Delimitation of the Maritime Boundary in the Gulf of Maine Area (Canada/United States of America), Judgment, I.C.J. Reports 1984, p. 305, para. 130). That is to say, silence may also speak, but only if the conduct of the other State calls for a response.)
Tóm tắt lý luận và phán quyết của Tòa
Để phân xử chủ quyền, Tòa đã xem xét quá trình liên quan đến chủ quyền trong từng giai đoạn lịch sử:
(i) Thời kỳ 1844 trở về trước: Sau khi xem xét những bằng chứng lịch sử, Tòa kết luận rằng ở thời điểm 1844, Pedra Branca và Middle Rocks thuộc về Johor (nay là một tiểu bang của Malaysia).
(ii) Trong thời gian 1844-1852, Johor đã cho phép Anh xây hải đăng trên Pedra Branca. Tòa không kết luận gì về sự kiện này, và cho rằng việc này không có nghĩa là Johor từ bỏ chủ quyền.
(iii) Từ 1852 tới 1952, Johor không có động thái nào khẳng định chủ quyền trên các đảo liên hệ.
(iv) Năm 1953, để trả lời một lá thư từ Đổng lý Thuộc địa (Colonial Secretary) Singapore hỏi về chủ quyền Pedra Branca, quyền Đổng lý Tiểu bang (Acting State Secretary) Johor viết lá đáp thư như đã nói, khẳng định là Johor “không sở hữu” Pedra Branca. Tòa viết trong phần Kết luận rằng lá thư này “có ý nghĩa lớn” (“has major significance” đoạn 275) và kết luận rằng ở thời điểm 1953 Johor đã hiểu (understood), tức là đã chấp nhận, rằng họ không còn chủ quyền trên Pedra Branca (đoạn 223).
(v) Trong khoảng thời gian 1953-1980 Singapore đã nhiều lần khẳng định chủ quyền trên Pedra Branca nhưng Johor/Malaysia không phản ứng. Không những thế đã có những tài liệu và bản đồ Malaysia cho thấy rằng Pedra Branca thuộc Singapore.
Căn cứ vào quá trình trên, Tòa kết luận rằng vị trí hai bên đã dần dà “tiến hóa hội tụ” (convergent evolution) về một quan điểm chung: chủ quyền Pedra Branca thuộc Singapore. Tuy nhiên Middle Rocks được cho là (vẫn) thuộc về Malaysia, vì không có một quá trình “tiến hóa hội tụ” tương tự.
Có thể tóm tắt phán quyết của Tòa như sau: Johor/Malasia đã mất chủ quyền Pedra Branca vì cách hành xử của họ trong suốt nhiều năm cho thấy rằng họ không còn coi đảo này thuộc về họ.
Nhận xét về phán quyết Pedra Branca
· Tuy đòi hỏi bằng chứng rõ rệt, không thể nghi ngờ được cho việc thay đổi chủ quyền, nhưng Tòa coi rằng hình thức của bằng chứng (chẳng hạn hiệp ước chính thức) không quan trọng, mà quan trọng là ý định (intention hay understanding) của hai bên, thông qua cách hành xử.
· Tòa đã xử cho Singapore được chủ quyền Pedra Branca, mặc dù ở thời điểm 1844 chủ quyền thuộc Johor (Malaysia) và sau đó không hề có hiệp ước nào chính thức chuyển nhượng chủ quyền.
· Tòa không căn cứ vào một văn kiện hay biến cố nào duy nhất, mà căn cứ vào một quá trình theo đó quan điểm của hai bên dần dần thay đổi theo cùng một hướng: sự thụ động của Johor/Malaysia từ 1844 tới 1952, đáp thư Johor 1953, sự thụ động của Malaysia khi Singapore thi hành chủ quyền trong thời gian 1953-1980.
· Tuy nhiên, tòa coi đáp thư Johor (1953) là “có ý nghĩa lớn” (has major significance) bởi vì nó cho thấy rằng ở thời điểm đó, Johor không còn coi Pedra Branca là của mình nữa.
· Để ý là Tòa viết (đoạn 222) rằng trong thư này chữ “sở hữu” - ownership – phải hiểu là “chủ quyền” – sovereignty, mặc dù Malaysia đã yêu cầu Tòa phân biệt hai khái niệm đó (đoạn 198): ta thấy là nguyên tắc diễn giải “ít hại nhất” hay “trong bốn góc” không thể đánh bại một cách hiểu hợp lý.
· Singapore thỉnh nguyện Tòa rằng đáp thư Johor là một văn kiện chính thức từ bỏ chủ quyền (đoạn 226), nhưng tòa không chấp nhận (đoạn 228) vì nó chỉ được viết để trả lời một câu hỏi, nên không có tác dụng quyết định về mặt pháp lý (conclusive legal effect) [8].
· Singapore thỉnh nguyện Tòa rằng đáp thư Johor gây ra estoppel (đoạn 226), nhưng tòa không chấp nhận (đoạn 228) vì thư đó không hội đủ các điều kiện cho estoppel, đặc biệt là nó đã không khiến cho Singapore làm gì thiệt hại cho mình. [9].
· Singapore thỉnh nguyện Tòa rằng đáp thư Johor là một hành động đơn phương có tính cách ràng buộc (binding unilateral undertaking) (đoạn 226), nhưng Tòa không đồng ý (đoạn 229) vì đáp thư Johor không viết trong bối cảnh Anh tuyên bố chủ quyền trên Pedra Branca hay đang có tranh chấp, mà chỉ là để trả lời một câu hỏi [8].
· Tuy ba thỉnh nguyện trên của Singapore bị bác, nhưng điều đó không thay đổi kết quả tối hậu: Malaysia vẫn thua kiện.
Phần III. Vụ án Đông Greenland
Tóm tắt vụ án
Đảo Greenland được người Na Uy khám phá và định cư từ khoảng thế kỷ 10-11. Từ 1380 tới 1814 Na Uy là một phần của Đan Mạch. Đan Mạch đã kiểm soát Greenland và chủ quyền của Đan Mạch được một số nước khác ngầm công nhận (acquiesce). Tuy nhiên, những cơ sở của Đan Mạch đều nằm ở Tây Greenland và do đó Na Uy khi đã độc lập cho rằng Đan Mạch không có chủ quyền ở Đông Greenland. Sau nhiều thương nghị không có kết quả, năm 1931 Đan Mạch đem vụ này ra Tòa Công lý Quốc tế Thường trực (Permanent Court of International Justice), tiền thân của Tòa án Quốc tế. Năm 1933 Tòa xử Đan Mạch được chủ quyền toàn đảo Greenland [10].
Câu trả lời của Ngoại trưởng Ihlen
Bài này không đi vào chi tiết vụ án mà chỉ nói về một sự kiện quan trọng mà Tòa cho là có tính cách quyết định. Ngày 14/7/1919 trong một cuộc gặp mặt giữa Ngoại trưởng Đan Mạch và Ngoại trưởng Na Uy, Ngoại trưởng Đan Mạch nói rằng Đan Mạch sắp yêu cầu các nước công nhận chủ quyền Đan Mạch trên toàn thể Greenland, và hy vọng việc này sẽ không gặp khó khăn từ phía Na Uy. Ngoại trưởng Na Uy, ông Ihlen, nói rằng sẽ xem xét vấn đề, và ngày 22/7, trong một cuộc gặp mặt khác, Ihlen nói rằng Na Uy sẽ không gây khó dễ (“ne fera pas de difficultés”) về vấn đề này. Câu nói này được chính Ngoại trưởng Ihlen ghi nhận trong một biên bản, mà Tòa dịch từ tiếng Pháp như sau:
“The Danish Government has for some years past been anxious to obtain the recognition of all the interested Powers of Denmark's sovereignty over the whole of Greenland, and it proposes to place this question before the above-mentioned Committee at the same time. During the negotiations with the U.S.A. over the cession of the Danish West Indies, the Danish Government raised this question in so far as concerns recognition by the Government of the U.S.A., and it succeeded in inducing the latter to agree that, concurrently with the conclusion of a convention regarding the cession of the said islands, it would make a declaration to the effect that the Government of the U.S.A. would not object to the Danish Government extending their political and economic interests to the whole of Greenland.
The Danish Government is confident (he added) that the Norwegian Government will not make any difficulties in the settlement of this question.
I replied that the question would be examined.
14/7 - 19 Ih.”
“II. To-day I informed the Danish Minister that the Norwegian Government would not make any difficulties in the settlement of this question.
22/7 - 19 Ih.”
Tòa nhận xét về câu trả lời của Ihlen như sau (các đoạn đánh số là từ phán quyết của Tòa [10] ):
· Câu trả lời của Ihlen không có nghĩa là Ihlen công nhận Đan Mạch có chủ quyền Đông Greenland (tức là Ihlen có thể hiểu rằng ở thời điểm đó, Đan Mạch chưa coi là mình có chủ quyền Đông Greenland nhưng đang dự định mở rộng chủ quyền sang đó) (đoạn 188).
· Tuy nhiên câu trả lời của Ihlen là một lời hứa có tính cách ràng buộc Na Uy, bởi nó xuất phát từ một Ngoại trưởng, đứng trên cương vị đại diện nước mình để trả lời đại diện ngoại giao một nước khác, về một vấn đề thuộc thẩm quyền của ông ta. Tòa nhấn mạnh là kết luận này không thể nào chối cãi được (beyond dispute) (đoạn 192).
· Tòa coi tuyên bố của Ihlen là vô điều kiện và có tính cách quyết định (definitive) (đoạn 195).
· Do đó, Na Uy không được phản đối hay tranh giành (contest) chủ quyền của Đan Mạch ở Đông Greenland, và dĩ nhiên không được chiếm đóng phần đất nào ở Greenland (đoạn 202).
Nhận xét về phán quyết của Tòa
· Chỉ một lời nói (có biên bản) của một người có thẩm quyền đại diện quốc gia cũng có thể ràng buộc quốc gia đó về vấn đề chủ quyền. Điều này minh chứng rõ nguyên tắc “Luật pháp quốc tế không nhấn mạnh vào hình thức” mà ta đã thấy ở Phần II.
· Điều này cũng cho thấy là quan niệm “mọi sự thay đổi chủ quyền phải do quốc hội phê duyệt” là sai lầm. Quan niệm này đôi khi thấy trong các bài báo Việt Nam.
· Điều này cũng cho thấy là những bàn cãi trong cộng đồng và truyền thông tiếng Việt về gọi thư Phạm Văn Đồng là công hàm hay công thư là hoàn toàn vô bổ. Dù gọi là gì đi nữa thì nó cũng đã được ký tên và đóng dấu bởi một Thủ tướng, người đầy đủ thẩm quyền đại diện Chính phủ, và tuyên bố lập trường của Chính phủ.
Phần IV. Vụ án đền Preah Vihear
Tóm tắt vụ án
Preah Vihear là một ngôi đền cổ nằm sát biên giới Thái Lan-Cambodia. Đền này xây trên đỉnh một vách đá, cũng là đường phân thủy, chạy đại khái theo hướng đông-tây, nhìn về phía nam (vùng thấp) là Cambodia, nhìn về phía bắc (vùng cao) là Thái Lan.
Năm 1904, Thái Lan và Pháp (đại diện thuộc địa Cambodia) ký một hiệp ước về biên giới, theo đó thì sẽ dùng đường phân thủy làm biên giới ở khu vực này. Hai nước thành lập một ủy ban liên hợp để xác định biên giới. Áp dụng nguyên tắc đường phân thủy thì Preah Vihear thuộc Thái Lan. Tuy nhiên, năm 1907 sở địa đồ Pháp trình ủy ban liên hợp biên giới một địa đồ theo đó thì đường biên giới vẽ chệch về phía bắc đường phân thủy, khiến Preah Vihear nằm trong lãnh thổ Cambodia. Việc đó gây tranh chấp và được đưa ra phân xử tại Tòa án Quốc tế năm 1962. Tòa xử cho chủ quyền Preah Vihear thuộc về Cambodia [11].
Lý lẽ của Thái Lan
Cambodia chủ yếu dựa vào bản đồ 1907 để chứng tỏ chủ quyền của mình. Những lý lẽ chính của Thái Lan là:
1. Hai nước đã ký hiệp ước thỏa thuận nguyên tắc dùng đường phân thủy làm biên giới, theo đó thì Preah Vihear thuộc Thái Lan. Bản đồ 1907 là do Pháp vẽ và công bố, Thái Lan không dự phần, và đã vẽ sai vì không theo đúng đường phân thủy. Không có văn kiện chính thức nào nói rằng bản đồ này được ủy ban liên hợp 1904 chấp nhận.
2. Thái Lan đã liên tục thi hành chủ quyền ở đền Preah Vihear bằng cách chiếm đóng, quản lý.
Phán quyết của Tòa
Tòa chấp nhận rằng bản đồ 1907 “không có tính cách ràng buộc” ([11], trang 19). Tuy nhiên, nguyên tắc dùng đường phân thủy trong hiệp định biên giới 1904 cũng không ràng buộc nếu cả hai bên thỏa thuận không áp dụng nó trong trường hợp nào đó (“it was certainly within the power of the Governments to adopt such departures”) ([11], trang 20). Vấn đề là có sự thỏa thuận này không ở Preah Vihear, và điều này tùy thuộc vào ủy ban liên hợp 1904.
Tòa nhận xét rằng:
· Bản đồ 1907 đã được trình cho mọi thành viên ủy ban liên hợp 1904 và công bố rất trọng thể, gửi cho nhiều sứ quán Thái Lan và nhiều cơ quan quốc tế. Tuy nhiên, không có lời phản đối nào từ Thái Lan. Tòa cho rằng do đó Thái Lan đã đồng ý ngầm (acquiesce).
· Thái Lan nói rằng chỉ những viên chức thấp của họ thấy bản đồ 1907. Tòa cho rằng đó là lỗi của Thái Lan, nước này phải chịu hậu quả. Hơn nữa, sự sai biệt giữa đường biên giới và đường phân thủy quá rõ rệt nên không thể viện cớ lầm lẫn ([11], trang 24).
· Năm 1934-35, Thái Lan tự làm bản đồ lấy và nhận thấy sự sai biệt, nhưng vẫn không nói gì.
· Năm 1937, Thái Lan vẽ một bản đồ cho thấy Preah Vihear nằm trong lãnh thổ Cambodia.
· Năm 1947 Thái Lan và Pháp thương nghị ở Washington để hòa giải về các vấn đề biên giới, nhưng Thái Lan không đưa ra vấn đề Preah Vihear.
· Chuyến viếng thăm đền của bộ trưởng nội vụ Damrong năm 1930 như là khách của Pháp được coi là đặc biệt quan trọng. Năm 1930, một công sứ Pháp tại Cambodia lấy tư cách “chủ nhà” mời Hoàng thân Damrong, Bộ trưởng Nội vụ Thái Lan, tới thăm Preah Vihear và trương cờ Pháp tại đó. Ông này tới thăm mà không nói gì để khẳng định chủ quyền của Thái Lan. Tòa viết như sau: “Khó có thể tưởng tượng một sự khẳng định chủ quyền rõ ràng hơn thế từ phía Pháp. Việc đó đòi hỏi một phản ứng. Thái Lan đã không làm gì”, và việc đó cho thấy có vẻ Thái Lan đã “ngầm công nhận” (tacit recognition) chủ quyền của Cambodia trên Preah Vihear.
(When the Prince arrived at Preah Vihear, he was officially received there by the French Resident for the adjoining Cambodian province, on behalf of the Resident Superior, with the French flag flying. The Prince could not possibly have failed to see the implications of a reception of this character. A clearer affirmation of title on the French Indo-Chinese side can scarcely be imagined. It demanded a reaction. Thailand did nothing. Furthermore, when Prince Damrong on his return to Bangkok sent the French Resident some photographs of the occasion, he used language which seems to admit that France, through her Resident, had acted as the host country. The explanations regarding Prince Damrong's visit given on behalf of Thailand have not been found convincing by the Court. Looking at the incident as a whole, it appears to have amounted to a tacit recognition by Siam of the sovereignty of Cambodia (under French Protectorate) over Preah Vihear, through a failure to react in any way, on an occasion that called for a reaction in order to affirm or preserve title in the face of an obvious rival claim.)
· Về việc Thái Lan đã chiếm đóng hay quản lý Preah Vihear, Tòa cho là những hành động này thường là do chính quyền địa phương, và không đủ để triệt tiêu (cancel out) lối hành xử im lặng của chính quyền trung ương.
· Năm 1949, Pháp viết thư cho Thái Lan yêu cầu rút lính gác Thái khỏi đền, nhưng Thái Lan không trả lời.
· Năm 1954 Cambodia (mới độc lập) gửi một lá thư tương tự, nhưng Thái Lan không trả lời.
Vì những lý do trên Tòa phán quyết với đa số 9/3 rằng chủ quyền Preah Vihear thuộc về Cambodia.
Nhận xét về phán quyết Preah Vihear
· Thái Lan và Pháp (đại diện Cambodia) đã ký hiệp ước biên giới ghi rõ là đường biên giới đi theo đường phân thủy, và theo điều khoản đó thì Preah Vihear phải thuộc về Thái Lan.
· Thái Lan không hề ký một hiệp ước hay có một tuyên bố đơn phương nào từ bỏ chủ quyền Preah Vihear.
· Tuy nhiên, dùng nguyên tắc acquiescence (đồng ý ngầm), Tòa đã cho rằng Thái Lan không có chủ quyền vì đã nhiều lần không phản ứng trước những hành động hay tài liệu có thể hiểu là khẳng định chủ quyền của Pháp hay Cambodia.
· Tòa cho rằng hành động chiếm đóng hay quản lý của Thái Lan không đủ để triệt tiêu thái độ im lặng, ngầm đồng ý của nước này khi cần phải có phản ứng.
KẾT LUẬN
  1. Về vấn đề chủ quyền lãnh thổ, Tòa Án Quốc Tế dựa vào nội dung và ý định trong các văn kiện, cũng như vào các hành động và sự kiện, hơn là vào hình thức văn kiện.
  2. “Ý định” phải hiểu là ý định diễn tả trong văn kiện, chứ không phải ý định ngầm của kẻ muốn giấu giếm hay ngần ngại thổ lộ ý định thật như có người đã giải thích.
  3. Những nguyên tắc “chỉ đọc trong bốn góc của văn bản”, “phải hiểu cách nào ít hại nhất cho người viết” không thể đánh bại một cách hiểu hợp lý (xem cách Tòa diễn giải lá thư của Johor trong vụ Pedra Branca).
  4. Chỉ một lời nói (có biên bản) của một đại diện có thẩm quyền (như ngoại trưởng) cũng có thể ràng buộc một quốc gia về vấn đề chủ quyền (xem vụ Đông Greenland).
  5. Thư Phạm Văn Đồng không phản đối khẳng định chủ quyền của Trung Quốc trên Hoàng Sa - Trường Sa, nên có thể bị coi là acquiescence.
  6. Hơn thế nữa, thư Phạm Văn Đồng có thể coi là đã tán thành rằng Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về Trung Quốc.
  7. Thư Phạm Văn Đồng không thể coi là một hiệp ước hay văn kiện chính thức nhường chủ quyền Hoàng Sa - Trường Sa cho Trung Quốc. Do đó, dùng những công ước về hiệp ước quốc tế để tìm hiểu tác dụng thư này chưa chắc sẽ đưa đến những kết luận chính xác.
  8. Thư Phạm Văn Đồng có lẽ không đủ để gây ra estoppel khiến Việt Nam không có quyền tuyên bố chủ quyền trên Hoàng Sa - Trường Sa.
  9. Tuy nhiên, nếu thư Phạm Văn Đồng là một yếu tố khiến Trung Quốc giúp Việt Nam dân chủ cộng hòa trong chiến tranh Việt Mỹ, gây tổn thương cho binh lính hay nhân viên Trung Quốc trong cuộc chiến đó, thì có thể estoppel sẽ được áp dụng [9]. (Điều tai hại là chính người Việt cũng có khi đưa ra lý lẽ này để giải thích thư Phạm Văn Đồng!)
  10. Tuy nhiên, tập trung vào khía cạnh estoppel của thư Phạm Văn Đồng là một việc sai lầm. Nguy hiểm chính của nó không ở chỗ đó.
  11. Ngay cả khi Tòa cho rằng thư Phạm Văn Đồng không có ý định nói gì về chủ quyền trên Hoàng Sa - Trường Sa, kết luận 12 ở trên vẫn chính xác (vì lý do đã nói ở kết luận 5).
CHÚ THÍCH VÀ TÀI LIỆU
[1] Ngay sau khi lá thư của Thủ tướng Việt Nam dân chủ cộng hòa Phạm Văn Đồng được gửi đi, báo Nhân dân gọi nó là “công hàm”. Từ này sau đó được dùng rộng rãi. Gần đây truyền thông trong nước thường gọi nó là công thư. Các nhà nghiên cứu và truyền thông ngoại quốc thường chỉ gọi là “Phạm Văn Đồng letter”, cũng đôi khi gọi là diplomatic note. Trong cộng đồng Việt Nam, cách gọi lá thư gần đây đã gây nhiều tranh cãi, nhiều người cho rằng không gọi nó là công hàm tức là cố ý giảm thiểu tầm quan trọng hay chính thức của nó. Bài này sẽ theo tập tục ngoại quốc và gọi là “thư Phạm Văn Đồng”. Như bài này sẽ cho thấy, dù gọi nó là gì thì giá trị pháp lý của nó cũng không thay đổi.
[2] www.state.gov/documents/organization/58832.pdf
[3] Nguyen Le Ha, Giá trị pháp lý công hàm Phạm Văn Đồng theo luật pháp quốc tế và cơ hội ngàn vàng để Việt Nam xác quyết chủ quyền trên hai nhóm đảo Hoàng Sa và Trường Sa,
http://boxitvn.blogspot.fr/2014/07/gia-tri-phap-ly-cong-ham-pham-van-ong.html
[4] Cao Huy Thuần, Công hàm Phạm Văn Đồng - Góp ý về việc giải thích. http://www.diendan.org/viet-nam/gop-y-ve-viec-giai-thich-cong-ham-pham-van-dong.
[5] V. Lowe, International Law, OUP, 2007 pp. 116-117
[6] International Court Of Justice (2008) Case Concerning Sovereignty over Pedra Branca/Pulau Batu Puteh, Middle Rocks and South Ledge (Malaysia/Singapore), Judgment of 23 May 2008. http://www.icj-cij.org/docket/files/130/14492.pdf
[7] Y. Tanaka (2008) Passing of Sovereignty: the Malaysia/Singapore Territorial Dispute before the ICJ. http://www.haguejusticeportal.net/index.php?id=9665
[8] Việc Tòa không chấp nhận ba thỉnh cầu của Singapore coi đáp thư là văn kiện chính thức từ bỏ chủ quyền, là ràng buộc hay gây estoppel có thể hơi khó hiểu nên cần biết chính xác là câu hỏi trong lá thư của Anh nói gì. Nguyên văn câu hỏi như sau: “It is [now] desired to clarify the status of Pedra Branca. I would therefore be most grateful to know whether there is any document showing a lease or grant of the rock or whether it has been ceded by the Government of the State of Johore or in any other way disposed of.” Câu hỏi đó không nói rằng Anh có hay đòi chủ quyền Pedra Branca, mà chỉ hỏi là Johor có còn giữ chủ quyền hay không, và do đó Tòa đã đi tới những kết luận như trên.
[9] Trong luật quốc tế, estoppel là sự ngăn cấm một nước (A) không được có những hành động mâu thuẫn gây hại cho nước (B) khác, cụ thể là không thể làm ngược những gì mình đã nói. Estoppel đòi hỏi ba yếu tố: thứ nhất, lời tuyên bố của A phải rõ ràng, không thể hiểu lầm; thứ hai, lời tuyên bố phải tự nguyện, vô điều kiện, và bởi người có thẩm quyền; và cuối cùng, B phải làm gì thiệt cho mình hoặc lợi cho A vì đã thực lòng tin vào lời tuyên bố của A. (First, the statement creating the estoppel must be clear and unambiguous; second, the statement must be voluntary, unconditional, and authorized; and finally, there must be good faith reliance upon the representation of one party by the other party either to the detriment of the relying party or to the advantage of the party making the representation.) (M.L. Wagner (1986) Jurisdiction by Estoppel in the International Court of Justice. California Law Review Volume 74, 1777-1804.)
[10] Permanent Court of International Justice (1933) Legal Status of Eastern Greenland - Denmark v. Norway, Judgment. http://www.worldcourts.com/pcij/eng/decisions/1933.04.05_greenland.htm
[11] International Court Of Justice (1962) Case concerning the temple of Preah Vihear (Cambodia v. Thailand), http://www.icj-cij.org/docket/files/45/4871.pdf.
[12] Article ler: La frontière entre le Siam et le Cambodge part, sur la rive gauche du Grand Lac, de l'embouchure de la rivière Stung Roluos, elle suit le parallèle de ce point dans la direction de l'est jusqu'à la rencontre de la riière Prék Kompong Tiam, puis, remontant vers le nord, elle se confond avec le méridien de ce point de rencontre jusqu'à la chaîne de montagnes Pnom Dang Rek. De là elle suit la ligne de partage des eaux entre les bassins du Nam Sen et du Mékong, d'une part, et du Nam Moun, d'autre part, et rejoint la chaîne Pnom Paclang dont elle suit la crête vers l'est jusqu'au Mékong. En amont de ce point, le Mékong reste la frontière du royaume de Siam, conformément à l'article ler du traité du 3 octobre 1893. (theo [10], trang 14

BÔ XÍT 

35 nhận xét:

  1. Công hàm của cố thủ tướng Phạm Văn Đồng chẳng có gì là sai ở đây cả tác giả ak, tác giả đừng có làm như thế này hành động này chẳng khác gì là tiếp tay cho kẻ xấu để làm hại đất nước để gây chia rẽ tình đoàn kết dân tộc cả, công hàm 1958 của thủ tướng Phạm Văn Đồng không có giá trị pháp lý gì cả bởi lẽ, vào thời điểm có công hàm đó, Hoàng Sa chưa thuộc về quản lý của chinh quyền ta hiện nay nên thủ tướng không có quyền gì ở đó cả

    Trả lờiXóa
  2. Công hàm 1958 của cố thủ tường Phạm Văn Đồng không hề có giá trị pháp lý gì cả, vì vào thời điểm năm 1958 lúc đó Hoàng Sa đang chịu sự quản lý của Việt Nam cộng hòa, nên việc cho dù Phạm Văn Đồng có nói gì đi nữa cũng không làm gì được, vì quyền quyết định là của Việt Nam cộng hòa, do đó tác giả đừng lấy cái này ra để nhằm làm cho nhiều người hiểu sai về Đảng và Nhà nước ta, chia rẽ đoàn kết dân tộc

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Đúng vậy. Một người đem cho cái không thuộc về mình thì không có giá trị, vì muốn cho người khác được thì trước hết món đồ đó phải là của mình trước đã, không phải là của mình thì cái việc cho không có giá trị. Chẳng lẽ bạn đem cho đồ của một người khác cho một người khác nữa được à. Do vậy, công hàm của cố thủ tường Phạm Văn Đồng không hề có giá trị pháp lý.

      Xóa
  3. Giờ tôi hỏi tác giả nhé, tôi nói nhà của tác giả là nhà của bạn tôi được không, và đó sẽ là sự thật được không, sao mà tác giả không hiểu vấn đề ở đây nhỉ, năm 1958 thì VIệt Nam dân chủ cộng hòa chưa tiếp quản Hoàng Sa mà nó vẫn thuộc sự quản lý của việt nam cộng hòa, nên cho dù công hàm của thủ tưởng Phạm Văn Đồng có nói nó làm của trung quốc đi nữa thì cũng khôgn có giá trị pháp lý gì cả, do đó tác giả đừng đem ra đây để xuyên tạc

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Những con lợn này sao không đặt câu hỏi này với tòa án quốc tế

      Xóa
    2. đối với công hàm này không hề nói đến Hoàng Sa và Trường Sa nên chúng không có chút căn cứ gì mà để nói chúng ta về Trường Sa và Hoàng Sa cả. hơn nữa chúng là người Việt thì chúng ta phải tìm hiểu và biết rõ những vấn đề thực chất của công hàm chứ không thể nói không như thế được. giờ đây tình hình căng thẳng không phải là lúc chúng ta luận tội lẫn nhau khi chúng là không ai có tội cả. vì thế đừng có mà thể hiện mình ở đây có giỏi thì tìm các giúp đất nước chứ đừng viết những bài sai trái ngu dốt như thế này

      Xóa
  4. Công hàm 1958 của cố thủ tướng Phạm Văn Đồng không hề có giá trị pháp lý gì cả và đây là cái lý do cùn mà trung quốc dựa vào để làm cơ sở cho những tham tính trên biển Đông, còn giới rận chủ bán nước thì lợi dụng vào đây để xuyên tạc nói xấu Đảng và NHà nước ta, chứ thức chất công hàm này như mớ giấy lộn thôi, vì công hàm ra năm 1958 của Việt Nam dân chủ cộng hòa thì làm sao mà tác động đến được Hoàng Sa đã chịu sự quản lý của Việt Nam cộng hòa được cơ chứ

    Trả lờiXóa
  5. Công hàm 1958 của cố thủ tướng Phạm Văn Đồng là một con bài ngoại giao rất thông minh của thủ tướng vào thời điểm đó, nếu không có công hàm đó thì nước ta chắc giờ không được như thế này đâu, mà công hàm này cũng đã đánh lừa được giới chính quyền trung quốc khi nó thực chất ra chẳng có giá trị pháp lý gì về việc công nhận hoàng sa là của ai cả, bởi lẽ hoàng sa vào thời điểm đó đang thuộc sự quản lý của Việt Nam cộng hòa cơ mà

    Trả lờiXóa
  6. Công hàm 1958 của cố thủ tướng Phạm Văn Đồng thực ra là một con bài ngoại giao của nước ta nhằm hạn chế địch bấy giờ, nếu không có nó thì chưa chắc đến giờ nước ta đã độc lập, và đó là một cái mưu mà trung quốc đã bị đánh lừa khi mà công hàm 1958 không hề có giá trị pháp lý gì ở đây cả, nó chỉ là việc tỏ quan điểm ngoại giao vào thời điểm đó thôi, còn Hoàng Sa thời đó là do VNCH quản lý

    Trả lờiXóa
  7. Cái đám lợn này ngu vừa vừa thôi,bọn cộng sản bán nước rõ ràng như thế rồi mà vẫn còn sủa theo chúng nó

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. bạn nói cho cẩn thận .ai bán nước hả...đúng là không hiểu gì mà lại cứ thích phát biểu. thử hỏi khi đó Hoàng Sa là thuộc quyền của ai chứ cộng sản khi đó có quyền gì ở đó không hả ,... bởi thế tại thời điểm đó thì công hàm của cố thủ tướng có giá trị pháp lí gì không chứ. Nhất là khi đó tình hình Mỹ đánh phá miền Bắc như thế nhỉ bạn có biết không. bởi thế đối với công hàm này không những không sai mà còn là một sự tài tình sáng suốt trong chiến lược đối ngoại đấy

      Xóa
  8. Chúng ta không có cái nhìn khách quan phù hợp với từng thời điểm thì chúng ta không thể hiểu rõ được ngọn nguồn mọi chuyện được.Chúng ta phải đặt mình vào trong cương vị đó thì mới thấu hiểu được mục đích của công hàm đó.Đừng để những phần tử xấu lợi dụng nói xấu chính quyền những vị lãnh tụ của đất nước ta. trong công hàm không hề nói về Hoàng Sa hay là Trường Sa nên đừng có mà xúc phạm tới những vị lãnh đạo trước đây của chúng ta với những luận điệu của những kẻ ngu xuẩn như thế

    Trả lờiXóa
  9. Hãy cảnh giác với những luận điệu vô căn cứ của các thế lực thù định bôi nhọ Đảng và Bác Hồ, mỗi chúng ta cần nhìn nhận vấn đề một cách khách quan, khoa học để nhận thức chính xác nhất về "công hàm 1958" tránh bị bọn phản động lợi dụng tuyên truyền. bởi vì chúng ta phải tìm hiểu trong vấn đề bối cảnh khi đó như thế nào thì mới có thể đánh giá được cái công hàm đó. hơn nữa trong công hàm không hề nói đến HS TS vì thế mọi luận điệu đều là vớ vẩn mà thôi

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Bọn này ngu thật,thảo nào dân nói chúng vừa tham vừa ngu vừa dốt,thằng Cộng sản vừa là thằng ăn cắp mà cũng vừa là thằng bán đồ gian,HS-TS trước đây thuộc VNCH đánh không được chiếm không được,thằng Phạm văn đồng làm giấy bán cho thằng Tàu thì có phải vừa ăn cắp vừa bán đồ gian không? thằng hồ tàu không chửi nó thì chửi ai còn thằng đảng chó săn tức đảng cộng sản làm chó cho bọn tàu chúng sai sủa đâu cắn đó chúng cũng làm miễn là được làm chó cho bọn ghẻ tàu

      Xóa
  10. THƯ NGÕ CỦA TƯỚNG LĨNH, ĐẢNG VIÊN VÀ SĨ PHU gửi BCBTW đảng CS Việt Nam
    Ngày 28 tháng 07 năm 2014

    Kính gửi: Ban Chấp hành Trung ương và toàn thể đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam
    Từ nhiều năm nay, Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) dẫn dắt dân tộc đi theo đường lối sai lầm về xây dựng chủ nghĩa xã hội theo mô hình xô-viết, được coi là dựa trên chủ nghĩa Mác-Lênin. Công cuộc đổi mới gần ba nươi năm qua nhằm sửa chữa sai lầm về đường lối kinh tế nhưng chưa triệt để, trong khi vẫn giữ nguyên thể chế độc đảng toàn trị kìm hãm tự do, dân chủ và chia rẽ dân tộc. Đường lối sai cùng với bộ máy cầm quyền quan liêu, tha hóa tạo điều kiện cho sự lộng hành của các nhóm lợi ích bất chính gắn với tệ tham nhũng, đưa đất nước lâm vào khủng hoảng toàn diện, ngày càng tụt hậu so với nhiều nước xung quanh.

    Trong khi đó, giới lãnh đạo Trung Quốc từ lâu đã theo đuổi mưu đồ đặt nước ta vào vị thế lệ thuộc, phục vụ lợi ích của Trung Quốc. Sau Hội nghị Thành Đô năm 1990 đến nay,Việt Nam đã có nhiều nhân nhượng trong quan hệ với Trung Quốc, phải trả giá đắt và càng nhân nhượng, Trung Quốc càng lấn tới. Gần đây, trong bối cảnh quốc tế phức tạp, Trung Quốc có nhiều hành vi leo thang mới trong mưu đồ xâm lược và bá chiếm Biển Đông, coi Việt Nam là mắt xích yếu nhất cần khuất phục trước tiên. Thực tế bóc trần cái gọi là “cùng chung ý thức hệ xã hội chủ nghĩa” chỉ là sự ngộ nhận và “4 tốt, 16 chữ” chỉ là để che đậy dã tâm bành trướng. Cho đến nay, thế lực bành trướng Trung Quốc đã đi được những bước quan trọng trong mưu đồ biến Việt Nam thành “chư hầu kiểu mới” của họ.
    Thực trạng đau lòng này phơi bày sự yếu kém cả về trách nhiệm và năng lực của lãnh đạo đảng và nhà nước trong thời gian qua.

    Toàn thể ĐCSVN, trong đó có chúng tôi, phải chịu trách nhiệm trước dân tộc về tình hình nói trên và phải góp phần tích cực khắc phục những sai lầm đã gây ra; trong đó phần trách nhiệm chủ yếu và trước hết thuộc về Ban Chấp hành Trung ương và Bộ chính trị.
    ( Doc tiep)

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. ( Tiep theo)...Vì vậy chúng tôi, những người ký tên dưới đây, thấy cần bày tỏ suy nghĩ của những đảng viên ĐCSVN trung thành với tâm nguyện vì nước vì dân khi vào Đảng với mấy yêu cầu chính dưới đây:

      1. Trước tình thế hiểm nghèo của đất nước, với trách nhiệm và vị thế của mình, ĐCSVN tự giác và chủ động thay đổi Cương lĩnh, từ bỏ đường lối sai lầm về xây dựng chủ nghĩa xã hội, chuyển hẳn sang đường lối dân tộc và dân chủ, trọng tâm là chuyển đổi thể chế chính trị từ toàn trị sang dân chủ một cách kiên quyết nhưng ôn hòa. Ngay từ bây giờ, cần thảo luận thẳng thắn và dân chủ trong toàn Đảng và trong cả nước về tình hình mọi mặt của đất nước và những thách thức trước bước đi mới rất trắng trợn của Trung Quốc bá chiếm Biển Đông, vạch ra con đường chuyển đổi cơ cấu kinh tế lạc hậu và lệ thuộc nghiêm trọng vào Trung Quốc hiện nay, xây dựng hệ thống nhà nước pháp quyền thật sự dân chủ. Chỉ có như vậy mới phát huy được sức mạnh trí tuệ, tinh thần và vật chất của dân tộc Việt Nam, tăng cường được đoàn kết, hòa hợp dân tộc và tranh thủ được sự ủng hộ mạnh mẽ của nhân loại tiến bộ, mở ra một thời kỳ mới cho sự phát triển và bảo vệ đất nước.

      Quan điểm nêu trên cần được thấu suốt và thực hiện ngay trong việc chuẩn bị và tiến hành đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội toàn quốc lần thứ XII với các đại biểu được bầu chọn thật sự dân chủ, đáp ứng được yêu cầu chính trị của đại hội. Đó là trách nhiệm của các tổ chức đảng các cấp và của từng đảng viên có tinh thần yêu nước. Đồng thời, kỳ bầu cử Quốc hội sắp tới phải thật sự dân chủ, tạo lập một Quốc hội chuyên nghiệp, xứng đáng đại diện cho dân, đáp ứng yêu cầu lập pháp chuyển đổi thể chế chính trị.

      Việc cần làm ngay để thể hiện sự thực tâm chuyển đổi thể chế chính trị, tạo niềm tin trong dân là các cơ quan công quyền chấm dứt các hành động sách nhiễu, trấn áp, quy kết tùy tiện đối với người dân biểu tình yêu nước, đối với các tổ chức xã hội dân sự mới thành lập, trả tự do cho những người đã và đang bị kết án hình sự chỉ vì công khai bày tỏ quan điểm chính trị của mình.

      2. Lãnh đạo đảng và nhà nước thống nhất nhận định về mưu đồ và hành động của thế lực bành trướng Trung Quốc đối với nước ta, từ bỏ những nhận thức mơ hồ, ảo tưởng; và có đối sách trước mắt và lâu dài bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ trong mọi tình huống, thoát khỏi sự lệ thuộc vào Trung Quốc, xây dựng quan hệ láng giềng hòa thuận, hợp tác bình đẳng, vun đắp tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước.

      Là người chủ đất nước, nhân dân có quyền được biết và phải được biết sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc và những điều quan trọng đã ký kết với Trung Quốc như thỏa thuận Thành Đô năm 1990, thỏa thuận về hoạch định biên giới trên đất liền và vịnh Bắc Bộ, những thỏa thuận về kinh tế v.v…

      Xóa
    2. ( Tiep)...
      Việc cần thiết và cấp bách hiện nay là phải nhanh chóng kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế nhằm phát huy thế mạnh chính nghĩa của nước ta. Đồng thời, Việt Nam cần chủ động cùng với các nước ven Biển Đông thỏa thuận giải quyết những vướng mắc về chủ quyền trên biển với các đảo, bãi đá; củng cố sự đoàn kết, thống nhất của các nước ASEAN, trước hết là giữa các quốc gia ven biển, trong cuộc đấu tranh chống mọi hành động bành trướng của Trung Quốc muốn độc chiếm vùng biển này thành ao nhà của mình.

      Quan điểm “không liên minh với nước nào nhằm chống nước thứ ba” là tự trói buộc mình, không phù hợp với thực tế, cần phải thay đổi.

      Tổ quốc đang lâm nguy đồng thời đứng trước cơ hội lớn để thay đổi! Trách nhiệm của các đảng viên yêu nước là phải cùng toàn dân nắm lấy thời cơ này, vượt qua thách thức, mở ra một thời kỳ mới cho sự phát triển và bảo vệ đất nước.

      Bỏ lỡ cơ hội này là có tội với dân tộc!




      DANH SÁCH CÁC ĐẢNG VIÊN KÝ THƯ NGỎ GỬI BCH TW

      VÀ TOÀN THỂ ĐẢNG VIÊN ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

      ______________________

      1. Nguyễn Trọng Vĩnh, vào Đảng năm 1939, Thiếu tướng, nguyên Ủy viên dự khuyết Ban chấp hành trung ương Đảng khóa III, nguyên Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Trung Quốc, Hà Nội.

      2. Đào Xuân Sâm, vào Đảng năm 1946, nguyên Trưởng khoa Quản lý kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, nguyên thành viên Ban nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội.

      3. Trần Đức Nguyên, vào Đảng năm 1946, nguyên Trưởng ban Ban nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội.

      4. Nguyễn Văn Tuyến, vào Đảng năm 1946, Đại tá, Cựu chiến binh, Hà Nội.

      5. Lê Duy Mật, vào Đảng năm 1947, Thiếu tướng, nguyên Tư lệnh phó, kiêm Tham mưu trưởng Quân khu II, Chỉ huy trưởng Mặt trận Vị Xuyên, Hà Giang 1979 – 1988, Hà Nội.

      6. Tạ Đình Du (Cao Sơn), vào Đảng năm 1948, Đại tá, Cựu chiến binh, Hà Nội.

      7. Vũ Quốc Tuấn, vào Đảng năm 1948, nguyên Trợ lý Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Hà Nội.

      8. Nguyễn Hữu Côn, vào Đảng năm 1949, Đại tá, Cựu chiến binh, nguyên Tham mưu trưởng Hậu cần Quân đoàn 2, Hà Nội.

      9. Hoàng Hiển, vào Đảng năm 1949, nguyên Trung tá Hải quân, Hà Nội.

      10. Đỗ Gia Khoa, vào Đảng năm 1949, nguyên cán bộ cơ quan Bộ Công an và Tổng cục Hải Quan, Hà Nội.

      11. Hà Tuân Trung, vào Đảng năm 1949, nguyên Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương, nguyên Tổng biên tập tạp chíKiểm tra, Hà Nội.

      12. Nguyễn Thị Ngọc Toản, vào Đảng năm 1949, Đại tá, Giáo sư, Cựu Chiến binh, nguyên Chủ nhiệm khoa, Quân Y viện 108, Hà Nội.

      13. Phạm Xuân Phương, vào Đảng năm 1949, Đại tá, Cựu chiến binh, nguyên chuyên viên Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam, Hà Nội.

      14. Tô Hòa, vào Đảng năm 1950, nguyên Tổng Biên tập báo Sài Gòn Giải phóng.

      15. Võ Văn Hiếu, vào Đảng năm 1950, nguyên cán bộ thuộc Ban Tuyên huấn trung ương Cục Miền Nam.

      16. Hoàng Tụy, vào Đảng năm 1950, Giáo sư Toán học, Hà Nội.

      17. Huỳnh Thúc Tấn, vào Đảng năm 1951, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, Hà Nội.

      18. Tạ Đình Thính, vào Đảng năm 1951, nguyên Vụ trưởng Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.

      19. Nguyên Ngọc, vào Đảng năm 1956, Nhà văn, nguyên Bí thư Đảng đoàn Hội Nhà văn Việt Nam, Hội An.

      20. Tương Lai, vào Đảng năm 1959, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học, nguyên thành viên Tổ tư vấn của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, TP. Hồ Chí Minh.

      Xóa
    3. Việc cần thiết và cấp bách hiện nay là phải nhanh chóng kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế nhằm phát huy thế mạnh chính nghĩa của nước ta. Đồng thời, Việt Nam cần chủ động cùng với các nước ven Biển Đông thỏa thuận giải quyết những vướng mắc về chủ quyền trên biển với các đảo, bãi đá; củng cố sự đoàn kết, thống nhất của các nước ASEAN, trước hết là giữa các quốc gia ven biển, trong cuộc đấu tranh chống mọi hành động bành trướng của Trung Quốc muốn độc chiếm vùng biển này thành ao nhà của mình.

      Quan điểm “không liên minh với nước nào nhằm chống nước thứ ba” là tự trói buộc mình, không phù hợp với thực tế, cần phải thay đổi.

      Tổ quốc đang lâm nguy đồng thời đứng trước cơ hội lớn để thay đổi! Trách nhiệm của các đảng viên yêu nước là phải cùng toàn dân nắm lấy thời cơ này, vượt qua thách thức, mở ra một thời kỳ mới cho sự phát triển và bảo vệ đất nước.

      Bỏ lỡ cơ hội này là có tội với dân tộc!




      DANH SÁCH CÁC ĐẢNG VIÊN KÝ THƯ NGỎ GỬI BCH TW

      VÀ TOÀN THỂ ĐẢNG VIÊN ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

      ______________________

      1. Nguyễn Trọng Vĩnh, vào Đảng năm 1939, Thiếu tướng, nguyên Ủy viên dự khuyết Ban chấp hành trung ương Đảng khóa III, nguyên Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Trung Quốc, Hà Nội.

      2. Đào Xuân Sâm, vào Đảng năm 1946, nguyên Trưởng khoa Quản lý kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, nguyên thành viên Ban nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội.

      3. Trần Đức Nguyên, vào Đảng năm 1946, nguyên Trưởng ban Ban nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội.

      4. Nguyễn Văn Tuyến, vào Đảng năm 1946, Đại tá, Cựu chiến binh, Hà Nội.

      5. Lê Duy Mật, vào Đảng năm 1947, Thiếu tướng, nguyên Tư lệnh phó, kiêm Tham mưu trưởng Quân khu II, Chỉ huy trưởng Mặt trận Vị Xuyên, Hà Giang 1979 – 1988, Hà Nội.

      6. Tạ Đình Du (Cao Sơn), vào Đảng năm 1948, Đại tá, Cựu chiến binh, Hà Nội.

      7. Vũ Quốc Tuấn, vào Đảng năm 1948, nguyên Trợ lý Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Hà Nội.

      8. Nguyễn Hữu Côn, vào Đảng năm 1949, Đại tá, Cựu chiến binh, nguyên Tham mưu trưởng Hậu cần Quân đoàn 2, Hà Nội.

      9. Hoàng Hiển, vào Đảng năm 1949, nguyên Trung tá Hải quân, Hà Nội.

      10. Đỗ Gia Khoa, vào Đảng năm 1949, nguyên cán bộ cơ quan Bộ Công an và Tổng cục Hải Quan, Hà Nội.

      11. Hà Tuân Trung, vào Đảng năm 1949, nguyên Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương, nguyên Tổng biên tập tạp chíKiểm tra, Hà Nội.

      12. Nguyễn Thị Ngọc Toản, vào Đảng năm 1949, Đại tá, Giáo sư, Cựu Chiến binh, nguyên Chủ nhiệm khoa, Quân Y viện 108, Hà Nội.

      13. Phạm Xuân Phương, vào Đảng năm 1949, Đại tá, Cựu chiến binh, nguyên chuyên viên Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam, Hà Nội.

      14. Tô Hòa, vào Đảng năm 1950, nguyên Tổng Biên tập báo Sài Gòn Giải phóng.

      15. Võ Văn Hiếu, vào Đảng năm 1950, nguyên cán bộ thuộc Ban Tuyên huấn trung ương Cục Miền Nam.

      Xóa
    4. ...16. Hoàng Tụy, vào Đảng năm 1950, Giáo sư Toán học, Hà Nội.

      17. Huỳnh Thúc Tấn, vào Đảng năm 1951, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, Hà Nội.

      18. Tạ Đình Thính, vào Đảng năm 1951, nguyên Vụ trưởng Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.

      19. Nguyên Ngọc, vào Đảng năm 1956, Nhà văn, nguyên Bí thư Đảng đoàn Hội Nhà văn Việt Nam, Hội An.

      20. Tương Lai, vào Đảng năm 1959, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học, nguyên thành viên Tổ tư vấn của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, TP. Hồ Chí Minh.

      21. Nguyễn Khắc Mai, vào Đảng năm 1959, Giám đốc Trung tâm Minh Triết, Hà Nội.

      22. Đào Công Tiến, vào Đảng năm 1960, nguyên Hiệu trưởng trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh, Phó Chủ tịch Hội Kinh tế Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh.

      23. Vũ Linh, vào Đảng năm 1962, nguyên Chủ nhiệm chương trình PIN mặt trời, Đại học Bách Khoa Hà Nội, Hà Nội.

      24. Nguyễn Kiến Phước, vào Đảng năm 1962, nguyên Ủy viên Ban Biên tập báo Nhân Dân, TP. Hồ Chí Minh.

      25. Nguyễn Thị Ngọc Trai, vào Đảng năm 1963, nhà báo, nhà văn, nguyên Phó Tổng biên tập báo Văn Nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam, Hà Nội

      26. Võ Văn Thôn, vào Đảng năm 1965, nguyên Giám đốc Sở Tư pháp TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.

      27. Nguyễn Trung, vào Đảng năm 1965, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Thái Lan, Hà Nội.

      28. Huỳnh Kim Báu, vào Đảng năm 1965, nguyên Tổng thư ký‎ Hội Trí thức yêu nước TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.

      29. Hạ Đình Nguyên, vào Đảng năm 1965, nguyên Chủ tịch Ủy ban phối hợp hành động Tổng hội Sinh viên Sài Gòn, TP. Hồ Chí Minh.

      30. Nguyễn Văn Ly (Tư Kết), vào Đảng năm 1966, nguyên thư k‎ý của Bí thư Thành ủy Mai Chí Thọ, nguyên Phó bí thư Đảng ủy Sở Văn hóa -Thông tin TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh

      31. Lê Công Giàu, vào Đảng năm 1966, nguyên Phó bí thư Thường trực Thành đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh, nguyên Giám đốc Trung tâm Xúc tiến thương mại, đầu

      Xóa
    5. ...32. Kha Lương Ngãi, vào Đảng năm 1966, nguyên Phó Tổng Biên tập báo Sài Gòn Giải phóng, TP. Hồ Chí Minh.

      33. Tô Nhuận Vỹ, vào Đảng năm 1967, nhà văn, nguyên Bí thư Đảng Đoàn kiêm Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Thừa Thiên - Huế, Tổng biên tập tạp chí Sông Hương, nguyên Giám đốc Sở Ngoại vụ tỉnh Thừa Thiên - Huế, TP. Huế.

      34. Phạm Đức Nguyên, vào Đảng năm 1968, Phó Giáo sư Tiến sĩ ngành Xây dựng, 46 tuổi đảng, Hà Nội.

      35. Bùi Đức Lại, vào Đảng năm 1968, nguyên Vụ trưởng, chuyên gia cao cấp bậc II, Ban Tổ chức trung ương Đảng, Hà Nội.

      36. Lữ Phương, vào Đảng năm 1968, nguyên Thứ trưởng Bộ Văn Hóa Chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam, TP. Hồ Chí Minh.

      37. Nguyễn Lê Thu An, vào Đảng năm 1969, cựu tù chính trị Côn Đảo, TP. Hồ Chí Minh.

      38. Nguyễn Đăng Quang, vào Đảng năm 1969, Đại tá công an, đã nghỉ hưu, Hà Nội.

      39. Trần Văn Long, vào Đảng năm 1970, nguyên Phó Bí thư Thành đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.

      40. Nguyễn Thị Kim Chi, vào Đảng năm 1971, Nghệ sĩ ưu tú, Đạo diễn điện ảnh, Hà Nội.

      41. Huỳnh Tấn Mẫm, vào Đảng năm 1971, nguyên Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn trước 1975, nguyên đại biểu Quốc hội khóa 6, nguyên Tổng biên tập báo Thanh Niên, TP. Hồ Chí Minh.

      42. Võ Thị Ngọc Lan, vào Đảng năm 1972, nguyên cán bộ công an TP. Hồ Chí Minh.

      43. Hà Quang Vinh, vào Đảng năm 1972, cán bộ hưu trí, TP. Hồ Chí Minh.

      44. Nguyễn Đắc Xuân, vào Đảng năm 1973, nhà văn, nhà nghiên cứu văn hóa, nguyên Trưởng Đại diện báo Lao Độngtại khu vực Miền Trung - Tây Nguyên, TP. Huế.

      45. Lê Đăng Doanh, vào Đảng năm 1974, Tiến sĩ Kinh tế học, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội.

      46. Chu Hảo, vào Đảng năm 1974, nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ, Hà Nội.

      47. Nguyễn Xuân Hoa, vào Đảng năm 1974, nguyên Giám đốc Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh Thừa Thiên - Huế, TP. Huế.

      48. Nguyễn Vi Khải, vào Đảng năm 1974, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, 40 tuổi đảng, Hà Nội.

      49. Cao Lập, vào Đảng năm 1974, nguyên Bí thư Đảng ủy ngành Văn hóa -Thông tin TP. Hồ Chí Minh.

      50. Lê Thân, vào Đảng năm 1975, cựu tù chính trị Côn Đảo, nguyên Tổng Giám đốc Liên doanh SG-Riversite, TP. Hồ Chí Minh.

      51. Ngô Minh, vào Đảng năm 1975, nhà báo, nhà văn, TP. Huế.

      52. Trần Kinh Nghị, vào Đảng năm 1976, cán bộ Ngoại giao về hưu, Hà Nội.

      53. Hồ An, vào Đảng năm 1979, nhà báo, TP. Hồ Chí Minh.

      54. Đoàn Văn Phương, vào Đảng năm 1979, nguyên chiến sĩ thuộc Ban Giao lưu trung ương Cục, TP. Hồ Chí Minh.

      55. Hồ Uy Liêm, vào Đảng năm 1980, nguyên Quyền Chủ tịch Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Hà Nội.

      56. Trần Đình Sử, vào Đảng năm 1986, Giáo sư Tiến sĩ Ngữ văn, Hà Nội.

      57. Lê Văn Luyến, vào Đảng năm 1987, nguyên cán bộ thuộc Ban Tuyên huấn trung ương Cục Miền Nam, TP. Hồ Chí Minh.

      58. Nguyễn Gia Hảo, vào Đảng năm 1988, nguyên thành viên Tổ tư vấn của Thủ Tướng Võ Văn Kiệt, Hà Nội.

      59. Phạm Chi Lan, vào Đảng năm 1989, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội.

      60. Đào Tiến Thi, vào Đảng năm 1997, Thạc sĩ, Ủy viên Ban chấp hành Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Hà Nội

      61. Nguyễn Nguyên Bình, vào Đảng năm 1996, Trung tá, cựu chiến binh, Hà Nội.

      Xóa
  11. Vào thời điểm năm 1958 lúc đó Hoàng Sa đang chịu sự quản lý của Việt Nam cộng hòa, do đó công hàm của cố thủ tướng Phạm Văn Đồng không hề có giá trị pháp lý, vì quyền quyết định không nằm trong tay cố thủ tướng. Bây giờ một số kẻ lại bới móc chuyện này ra, còn cố ý phân tích theo hướng có lợi cho Trung Quốc là ý gì? Muốn Trung Quốc chiếm luôn Hoàng Sa à? Đúng là những kẻ bán nước hại dân.

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Có giá trị pháp lý hay không thì sẽ có người chuyên môn phán đoán nhưng câu hỏi ở đây là :: TẠI SAO KÝ tờ giấy thối này?
      Ngồi đó mà nói lấy được.

      Xóa
    2. ấu củ : nói đúng đấy công hàm đó ở thời điểm mà có thủ tướng kí không hề có giá trị pháp lí gì đối với Hoàng Sa. bởi khi đó Hoàng Sa là do VNCH đang chiếm giữ và có quyền ở đó. Khi đó công hàm chỉ mang tính chất đối ngoại mà thôi. nó không ảnh hưởng không có giá trị đối với Hoàng Sa . đến khi đất nước về tay của chính quyền cộng sản thì không có một chứng cớ gì khác để nói là công nhận cho Trung Quốc cả. đó chính là cái tài của lãnh đạo chúng ta

      Xóa
    3. Nặc danh : công hàm đó mà thủ tướng kí vào đó thì sao chứ...nó đâu có ảnh hưởng đối với Việt Nam ta chứ...nó không hề có giá trị pháp lí ở thời điểm đó nên . bởi thế công hàm này không những không sai mà lại nếu xem xét tại thời điểm kí đó thì có thể thấy được sự lãnh đạo tài tình của lãnh đạo chúng ta khi có những chiến lược đối ngoại hợp lí đó. như thế thì chúng ta lại giảm được sự tàn phá miền Bắc của Mỹ mà lại không ảnh hưởng tới đất nước

      Xóa
  12. Ai cũng biết vào thời điểm năm 1958 Hoàng Sa đang bị Việt Nam Cộng Hòa chiếm đóng. Do dó, Công hàm của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng sẽ không có giá trị pháp lý. Vậy mà vẫn có những kẻ lôi chuyện này ra để nói xấu, phân tích theo hướng tiêu cực, có lợi cho Trung Quốc, công nhận Hoàng sa là của Trung Quốc. Chẳng lẽ những kẻ như Xuân Việt Nam muốn Hoàng Sa bị Trung Quốc chiếm giữ như vậy sao.

    Trả lờiXóa
  13. Đọc xong bài thư ngõ đầy tâm huyết ở trên , đọc các còm vớ vẩn, lấp liếm của quý vị thấy nhạt và vô duyên ngớ ngẩn quá. Tội nghiệp!

    Trả lờiXóa
  14. Công hàm 1958 của cố thủ tướng Phạm Văn Đồng là một con bài ngoại giao rất thông minh của thủ tướng vào thời điểm đó, nếu không có công hàm đó thì nước ta đã bị tàn phá nặng mà nguy hiểm hơn nhiều không biết có được chiến thắng không khi mà Mỹ tàn phá miền Bắc thời đó, mà công hàm này cũng đã đánh lừa được giới chính quyền trung quốc khi nó thực chất ra chẳng có giá trị pháp lý gì về việc công nhận hoàng sa là của ai cả, bởi lẽ hoàng sa vào thời điểm đó đang thuộc sự quản lý của Việt Nam cộng hòa cơ mà

    Trả lờiXóa
  15. Hơn nữa nếu cố tình mà nói thì mọi người có thể thấy là công hàm đó không hề nói đến Hoàng Sa Trường Sa gì cả. bởi thế công hàm này không những không sai mà lại có một ý nghĩa là tốt đấy. Khi đó Hoàng Sa Trường Sa là do VNCH quản lí mà...khi đó cống hàm này chỉ mang tính chất ủng hộ ngoại giao về 12 hải lí mà thôi. chứ nó không có tính pháp lí gì để mà nói là Thủ tướng Phạm Văn Đồng bán đảo cả. vì thế đừng hàm hồ mà nói xấu về thủ tưởng nữa

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Gà mờ mà thích nói lằng nhằng. Trong tuyên bố của Tàu có đề cập đến Nam Sa , Tây Sa theo cách gọi của Tàu ( vao Google mà đọc). Nếu ta ký đồng ý với tuyên bố đó tức là cũng đồng ý về TS và HS.
      Ông Đồng nhân danh chính phủ Cộng Sản VN luc ay và bây giờ chính chính phủ CS này đang cai trị VN thì nói ấm ớ sao đây với lời tuyên bố năm ấy ?

      Xóa
    2. Nên hiểu rõ về việc đó ,trong công hàm không hề nói về Hoàng Sa hay là Trường Sa nên đừng có mà xúc phạm tới những vị lãnh đạo trước đây của chúng ta với những luận điệu của những kẻ ngu xuẩn như thế .Chỉ có Trung Quốc cãi cùn vậy thôi chứ làm gì có chuyện nước ta dâng Trường Sa và Hoàng Sa cho Trung Quốc.

      Xóa
    3. Sao cứ cãi lấy được ! trong Tàu tuyên bố có nếu HS & TS là của TQ nếu ta chấp nhận tuyên bố đó thì có nghĩa thế nào đây.

      Xóa
    4. Nặc danh01:19: BẠn nên hiểu rằng công hàm đó của thủ tướng Phạm Văn ĐỒng thì chúng ta cần đặt trong hoàn cảnh phù hợp mới được, trong công hàm hoàn toàn không có điều khoản nào cho thấy thủ tướng Phạm Văn ĐỒng công nhận Hoàng sa TRường sa của trung quốc đâu chứ. Hơn nữa chúng ta cần biết rằng việc công nhận chủ quyền của một nước thì thủ tuwongs không có quyền đó đâu bạn à

      Xóa
    5. @ Men Lan: Trong công hàm bên trái ở trên mang triện Thủ tướng phủ và có lời mở đầu rất rỏ:
      '' Chúng tôi xin trân trọng báo tin để dồng chí Tổng Lý rỏ:
      Chính phủ nuoc Viet nam Dân chủ Cộng hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày....''

      Trong tuyên bố của TQ có đề cập TS HS là của TQ , ông Đồng thay mặt chính phủ tán thành bản tuyên bố. Thế này mà cứ nói lấy dược , cai chày chối cuội là sao ?

      Xóa
  16. nặ danh@: Tôi thấy vấn đề nằm ở chỗ là hiện nay có những kẻ bán nước hại dân đang lợi dụng công hàm này để phá hoại đất nước ta đấy các bạn à. Trước hết không biết họ làm như thế này để làm gì, chẳng lẽ chúng muốn công nhận cái công hàm đó để chứng minh rằng Hoàng Sa Trường Sa là của trung quốc thật sao hả. Điều đó là điều chúng ta cần cảnh giac mới được các bạn à. Thứ hai là họ đã hiểu sai lệch về công hàm này mất rồi

    Trả lờiXóa
  17. Tôi thấy hiện nay lá thư của thủ tướng Phạm Văn Đồng đang bị nhiều người hiểu nhầm đấy các bạn à, nếu xét trong lịch sử hoàn cảnh lúc đó và nội dung của lá thư hoàn toàn không có câu nói nào chấp nhận Hoàng Sa TRường Sa của trung quốc đâu chứ các bạn. Hơn nữa với cương vị thủ tướng cá nhân thì không cso quyền thay mặt một nước công nhận lãnh thổ chủ quyền kiểu như vậy đâu chứ

    Trả lờiXóa